Trong y học cổ truyền, củ riềng có vị cay thơm, tính
ấm vào hai kinh tỳ và vị, có tác dụng ôn trung, giảm đau, tiêu thức ăn, chữa
đau bụng do lạnh, phong thấp, sốt rét, hắc lào, lang ben…
Cây riềng là loại cây nhỏ, thân rễ mọc bò ngang,
dài. Cụm hoa mặt trong màu trắng, mép hơi mỏng, kèm hai lá bắc hình mo, một màu
xanh, một màu trắng. Lá không cuống, có bẹ, hình mác dài. Củ riềng có tên là
phong khương, cao lương khương, tiểu lương khương, có khá (Thái), kìm sung
(Dao). Ở nước ta, cây riềng mọc hoang và được trồng ở khắp nơi, không chỉ được
dùng làm gia vị mà còn được sử dụng làm thuốc. Bộ phận làm thuốc rễ (củ) phơi
khô. Cách chế biến: đào rễ, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con rồi cắt thành từng đoạn
2 - 3cm, phơi khô. Riềng được dùng cả trong y học hiện đại và y học cổ truyền.
Theo nghiên cứu hiện đại, thành phần hóa học của riềng có khoảng 1% tinh dầu,
có mùi thơm long não, chủ yếu có xineola và metylxinnamat. Ngoài ra, còn có chất
dầu vị cay gọi là galangola được dùng để làm thuốc kích thích tiêu hóa, chữa đầy
hơi...
Bài thuốc chữa bệnh có sử dụng riềng:
Chữa đau bụng do lạnh: củ riềng 20g, nụ sim 8g, búp ổi
60g, tất cả sấy khô, tán bột. Ngày uống 3 lần sau ăn, mỗi lần 5g với nước sôi để
nguội. Hoặc củ riềng 200g, quế 120g, hậu phác 80g, sấy khô. Sắc uống mỗi lần
12g với 200ml nước, còn 50ml uống trong ngày. Dùng trong 2 - 4 ngày.
Chữa phong thấp: riềng, vỏ quít, hạt tía tô mỗi vị
60g, sấy khô, tán nhỏ, mỗi lần dùng 4g, có thể pha với một chén nước sôi để nguội
hoặc rượu, uống ngày 2 lần. Dùng trong 5 - 7 ngày.
Chữa sốt rét: bột riềng 300g, bột quế khô, bột thảo
quả mỗi thứ 100g, tất cả đem trộn với mật làm viên to bằng hạt ngô. Mỗi ngày
dùng 15 viên trước khi lên cơn. Hoặc riềng tẩm dầu vừng sao 40g, gừng khô nướng
35g tán nhỏ, hòa mật lợn làm hoàn thành viên bằng hạt ngô, uống ngày 15 - 20
viên.
Trị chứng đầy bụng, khó tiêu: riềng thái lát mỏng,
đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần. Ngày
dùng 2 - 3 lần.
Chữa hắc lào: củ riềng già 100g, giã nhỏ, ngâm với
200ml rượu hoặc cồn 70 độ. Chiết ra dùng dần, khi dùng, bôi dung dịch cồn nói
trên vào chỗ tổn thương, ngày bôi 2 - 3 lần.
Chữa lang ben: củ riềng 100g, lá và củ chút chít
100g, chanh một quả, hai thứ giã nát rồi vắt nước chanh, đun nóng. Khi dùng lấy
bông y tế thấm dịch thuốc bôi đều lên vùng tổn thương, ngày bôi 2 lần. Dùng
trong 5 - 7 ngày.
Chữa ho, viêm họng, tiêu hóa kém: riềng củ thái lát
mỏng, đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần.
Chữa ăn không tiêu, buồn nôn hoặc đau bụng thổ tả: hạt
riềng tán nhỏ, uống 6 - 10g.
Chữa tỳ vị hư hàn, đau bụng sôi bụng, đại tiện phần
lỏng: riềng 12g, bạch truật 12g, lá lốt 16g, lá ổi 16g, sinh khương 6g. Cho các
vị vào ấm đổ 3 bát nước sắc lấy 1,5 bát. Chia uống làm 2 - 3 lần trong ngày.
Chữa tiêu chảy nhiều lần, phân có lẫn bọt, quấy khóc
ở trẻ em: hoài sơn 10g, liên nhục 10g, củ riềng 6g, bạch truật 10g, biển đậu
10g, hậu phác 4g, trần bì 6g, sinh khương 4g. Cho các vị vào ấm đổ nước 2 bát,
sắc còn 1 bát, chia làm 2 - 3 lần uống trong ngày.
Chữa ngộ độc thức ăn, đau bụng, nôn mửa, có những
trường hợp đau bụng dữ dội kèm theo đại tiện lỏng, cơ thể có biểu hiện mất nước,
rối loại điện giải, mạch nhanh, huyết áp dưới mức bình thường: củ riềng 16g,
hoàng liên 10g, biển đậu 12g, bạch truật 12g, hoài sơn 16g, liên nhục 12g, sinh
khương (nướng) 10g, thảo quả 10g, quế 6g, chích thảo 10g, bán hạ chế 8g. Cho
các vị vào ấm, đổ nước 3 bát, sắc còn 1,5 bát, chia làm 3 lần uống (cách 2 giờ
uống 1 lần).
Chữa chứng “Ngũ Canh tả” cứ khoảng 5 giờ sáng là cần
đi ngoài, khi muốn đi thì phải đi ngay, không ngừng lại được, phân lỏng, cơ thể
yếu mệt, bụng lạnh, chân tay lạnh.
Nguyên nhân do tỳ thận dương hư.
Dùng bài thuốc: củ riềng phơi khô 16g, cẩu tích 12g,
ngũ gia bì 12g, sơn thù 12g, hoài sơn 16g, cố chỉ 10g, đỗ trọng (sao muối) 12g,
khởi tử 10g, bạch truật (sao hoàng thổ) 16g, hậu phác 12g, bán hạ chế 10g, trần
bì 10g, sinh khương 6g, quế 10g, chích thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang, 10 - 12
ngày là một liệu trình.
Bài thuốc xoa bóp:
Củ riềng phơi khô 20g, thiên niên kiện 16g, quế 24g,
thạch xương bồ 20g, trần bì (sao) 16g, nhân hạt gấc (sao vàng) 20g. Các vị thái
nhỏ, bỏ vào chai thủy tinh, đổ ngập rượu để ngâm.
Sau 10 ngày là có thể dùng được. Lấy bông tẩm vào
thuốc, xoa vào chỗ đau, kết hợp day, bấm nhẹ. Dùng trong những trường hợp đau
xương đau mình trật ngã, sang chấn, sưng đau các khớp, thần kinh tọa, đau nhức
cục bộ…
Theo BS. HOÀNG SƠN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét